Trong Thay lời giới thiệu in trang đầu tiểu thuyết Cá Voi Trầm Sát (CVTS) của Mai Ninh, nhà văn Nguyên Ngọc đã viết : ... « cuốn tiểu thuyết được cấu trúc theo một thế xoáy trôn ốc, càng về sau vòng xoáy càng cao lên mãi, ráo riết hơn, nhanh hơn, dữ hơn, đau đớn hơn" » ...
Tại sao có cơn lốc xoáy ? phải có hai sức hút không đồng trục mới tạo nên gió xoáy. Không phải như sống và chết, là hai hướng đối nghịch đồng trục, và nếu chỉ có thế chưa thể tạo dựng được cõi người. Cõi người cần tình yêu, ở chiều thẳng góc với chiều sống chết, nó có thể đem lại mầm sống, sinh con đẻ cái, dĩ nhiên ; và nó cũng có thể như cơn lốc xoáy vừa muốn thoát ra theo chiều ly tâm, vừa bị cuốn hút vào miền huỷ diệt.
Nỗi chết và tình yêu, từ Œdipe của thần thoại Hy Lạp, qua Shiva, vị thần hai mặt sáng tạo và huỷ diệt của thần thoại Ấn Độ, tới Freud và văn chương siêu thực... không biết bao nhiêu giấy mực đã đổ ra cho chủ đề đan chéo ấy. Và tự nhiên đề tài này thường đi liền với tình yêu cấm đoán, tình yêu bất khả. Đề tài muôn thủa nhưng luôn luôn mới này tuy dễ mà khó ; dễ, vì có thể khai thác ở mọi kích thước, có thể chỉ nói về một cặp tình nhân thôi, hay có thể nói đến cả một xã hội ; mà khó, vì cái sâu thẳm muôn thủa nơi con người đó lại chỉ có thể hiện ra trong những hoàn cảnh cụ thể, của một thời đại cụ thể, với những con người mang một nền văn hoá cụ thể. Vì thế khi viết đúng, và hay, chính là góp phần viết lịch sử văn hoá loài người ; còn nếu không đạt thì sẽ sáo mòn, giả dối, áp đặt lý thuyết trên hiện thực.
Người điểm sách này không có khả năng và cũng không muốn đi vào những phân tích lý thuyết trong văn học. Văn chương nghệ thuật trước hết là để thưởng thức, cộng hưởng, rung cảm. Vả lại đọc CVTS người ta hoàn toàn không có gì chắc chắn là Mai Ninh chủ ý muốn minh hoạ một ý tưởng lý thuyết nào, người đọc chỉ thấy cuốn hút, xúc động, và được chia sẻ những cảm xúc, những tình người. Phải chăng chính đó là bảo đảm của thành công trong văn chương.
CVTS đích thực là văn chương, gợi mở nhiều lối đọc với những góc độ hoàn toàn khác nhau ; vậy xin đóng ngoặc cho góc nhìn rất riêng đó, để làm như có thể nói được về một tác phẩm văn học ở mức độ khách quan tối thiểu, như nó tự là.
*
CVTS kể lại về ba thế hệ của một dòng họ. Có thể thấy trong tiểu thuyết này có hai sợi chỉ đỏ đan nhau : dòng họ đó chịu sự chi phối của một lời nguyền tuyệt tự (bao nhiêu đàn ông sinh ra đều chết yểu) và cái nòi truyền kiếp của tình yêu bất khả giữa những người trong gia đình ; cả hai đều là trầm sát (trầm sát ? chữ này hình như không có trong từ điển, nhưng đọc lên hiểu và cảm ngay, những sáng tạo ngôn từ như thế này không hiếm, một trong những độc đáo của tác giả). Với một cách đọc khác, đó chỉ là cái dẫn dắt huyền ảo cho mạch truyện ; và nói cho cùng cái sợi chỉ đỏ đích thực chính là thân phận và sự vùng vẫy của người phụ nữ trung lưu Việt Nam giữa buổi giao thời từ truyền thống đến hiện đại, trong một khung cảnh lịch sử ít khi được mô tả với cuồng thét và thịnh nộ, nhưng luôn luôn có mặt ở những hậu quả phi lý, lạnh lùng.
Nhân vật chính là Miên, cuốn truyện mở ra khi Miên chuẩn bị đi vào một cuộc phẫu thuật sống còn, mà rủi may không thể biết trước. Ở đây có một đoạn văn đẹp như thơ :
.... trong không gian ấy còn thấp thoáng vài đóa hoa mà không hiểu ai đã chọn cho chúng màu hồng trà cổ xưa dịu dàng đằm thắm. Buổi chiều, khi cài cánh cổng gỗ để ra đi, tôi còn kịp nhận ra cây hồng nhỏ dưới chân vội vã nở nốt bông cuối cùng. Cúi xuống, nâng nhẹ lên tay, kề mũi tìm chút hương thơm. Lúc tôi trở về, chắc hoa đã rụng. (tr. 9)
Và truyện khép lại bằng bức thư Miên gửi cho Mân, một người bạn, sau khi phẫu thuật thành công, và sau một thời gian ... thấy mình đang cầm một máy quay phim, chú tâm cố gắng rọi ống kính sâu suốt vào mỗi mảnh đời của từng người thân, thu chụp lọc bắt những gì kín ẩn làm nên con người, định mệnh của họ.( tr. 271). Kết quả của những hồi tưởng này là chín chương của tiểu thuyết, trong đó nội tâm và hoàn cảnh của từng người được kể lại, đại bộ phận qua ngôi thứ nhất.
Bà nội Miên là một thiếu nữ vọng tộc của tỉnh Phúc Kiến bên Trung Quốc, vì yêu người anh họ nên bị gả cho một viên chức An Nam công cán tại đó. Khi theo chồng về Việt Nam mới biết phải chịu phận lẽ mọn, bà xung đột với sự ghen tức đố kỵ của gia đình anh chị em bên chồng ; rồi hai bên nguyền rủa nhau tuyệt tự. Khi chồng chết bà đem các con vào Nam, dựa vào những người đồng hương tái tạo một cuộc đời độc lập, nuôi con cháu ăn học nên người. Bà có ba con trai và ba con gái : theo thứ tự là Châu, con gái đầu lòng, Chương và Đô hai con trai, tới Phượng, rồi con trai út là Bá và con gái út là Nhược. Chương, Đô và Bá lần lượt mất tích hoặc chết bất đắc kỳ tử. Tới thế hệ thứ ba thì : Chương có hai con trai đều chết sớm, Đô có một con trai cũng chết bạo bệnh như thế. Sống được tới trưởng thành có Thanh, con trai, và Nga, con gái của Nhược, Miên con gái của Đô. Nhưng rồi Thanh cũng bị tai nạn xe máy chết khi tâm thần bàng hoàng vừa thấy mình yêu Miên cô em họ vừa chao đảo bởi một người thanh niên khác, lại bị cha biết và mắng chửi tàn tệ. Bà nội Miên chống chọi tới cùng số phận tuyệt tự nghiệt ngã, đến nỗi bắt Miên để tóc ngắn và quyết phải học hành thành đạt như con trai. Miên vâng lời gia đình đành xa bạn bè và người yêu là Đăng để sang Pháp du học.
Sau hoà bình bà Châu theo Nga và chồng con sang Pháp sống ; cũng như Vân, bạn sĩ quan của Đăng, và vợ là Hạc, họ có một người con nuôi gốc Hoa. Rồi Hạc chết và Vân trở về Việt Nam. Câu chuyện kết thúc khi Mân, bạn Miên và là người từng yêu Thanh, gặp lại Miên ở Pháp, thấy Miên có vẻ như đang sống một cuộc sống khác, cũng đầy ắp tình bạn, như xưa, nhưng thực ra nàng vẫn vấn vương u uẩn. Rồi Mân được Miên kể về mối tình cuối của nàng tại Pháp, với Băng, người mà tình cờ sau đó mới biết là chú họ. Nhưng cuối cùng, đối diện cái chết, Miên đã giải thoát được với định mệnh nghiệt ngã đó để trở nên thanh thản như loài cá voi mắc cạn đã thoát ra biển rộng khi thuỷ triều lên. ... Thủy triều đang dâng trở lại, tiếng sóng vọng miên man. Sóng dồn dập một đời người, mê mải. (tr. 254) Miên ơi ! có thật thuỷ triều đã dâng lên không Miên?
*
Chín chương, chín truyện ngắn hoàn chỉnh, tất cả hợp lại thành một truyện dài, với bố cục không hề rời rạc mà ngược lại hoàn chỉnh đến chi li. Và đúng mỗi chương là một vòng xoáy ngày càng cao, ngày càng dữ dội và đau đớn, cho đến giải thoát.
Chim khuyên lựu đỏ nói về Châu, con gái đầu lòng, cho đến chết không hề có tình yêu, vì đã đánh mất sự trinh trắng trong một trường hợp bất khả kháng để giúp mẹ và các em. Châu không có can đảm cho bất cứ ai biết chuyện ấy, nên bà đã sống suốt đời cô đơn, cho đến khi :
... Bà cụ ngồi ở ghế bành gần cửa sổ, đêm xanh đầy sao. Trước mặt là màn ảnh truyền hình đã hết chương trình chưa tắt, những lằn trắng đen nháy nhóa. Nó lạ lùng nhìn hai bàn tay dài chụp lên nhau, đặt đúng chỗ giữa vùng chân dạng ra, vải gấm sa-tanh đen nhánh. Mấy ngón cong quíu, nửa như cào cấu nửa đậy điệm che giữ. Đầu tóc trắng phơ lệch nghiêng trên lưng ghế, có những rọc sợi sổ dài đang cuốn bay về hướng cửa. (tr. 72)
Bà chấp nhận cái chết của tình yêu để sống bằng bổn phận, như mẹ mình.
Chim khuyên lựu đỏ nói về Châu, con gái đầu lòng, cho đến chết không hề có tình yêu, vì đã đánh mất sự trinh trắng trong một trường hợp bất khả kháng để giúp mẹ và các em. Châu không có can đảm cho bất cứ ai biết chuyện ấy, nên bà đã sống suốt đời cô đơn, cho đến khi :
... Bà cụ ngồi ở ghế bành gần cửa sổ, đêm xanh đầy sao. Trước mặt là màn ảnh truyền hình đã hết chương trình chưa tắt, những lằn trắng đen nháy nhóa. Nó lạ lùng nhìn hai bàn tay dài chụp lên nhau, đặt đúng chỗ giữa vùng chân dạng ra, vải gấm sa-tanh đen nhánh. Mấy ngón cong quíu, nửa như cào cấu nửa đậy điệm che giữ. Đầu tóc trắng phơ lệch nghiêng trên lưng ghế, có những rọc sợi sổ dài đang cuốn bay về hướng cửa. (tr. 72)
Bà chấp nhận cái chết của tình yêu để sống bằng bổn phận, như mẹ mình.
Trong Ngược dòng Nhược là người thừa hưởng cái kiên cường như mẹ mình, và là người cảm nhận đau sâu nhất về những mất mát của mẹ. Để khi chính Thanh con mình bị chết, đã dám trả lại một lời nguyền về bên ông chú, không ngờ để di hận cho cô cháu Miên yêu quý ngày sau. Trong những người đàn bà của gia đình này Nhược là người chấp nhận cuộc sống bình thường, lấy chồng đẻ con.
Trong Cỏ ám, sau cái chết của Đô, người anh mình yêu, Phượng đã chọn một cách sống khác, hào nhoáng, phù du, của cuộc đời làm lẽ cho một người đàn ông sang trọng. Làm lẽ như mẹ, nhưng không có con như mẹ, và không thua thiệt như mẹ :
... Tôi tiếp tục là người đàn bà lộng lẫy cho Quân trong yến tiệc, nói cười bặt thiệp, tiếng Tây vi vu, người đàn bà vẹn toàn cho những không gian ngoài căn phòng chồng vợ. Cặp cánh phượng tôi có giương ra trời rộng cũng chỉ đưa Quân đến nơi phù ảo. (tr.110).
Một hình thức từ chối cả nỗi chết lẫn tình yêu. Nhưng rồi cuối cùng Phượng cũng không tránh khỏi một nỗi đau khác khi chồng chết :
... Cô Phượng đang lả người, bỗng lết vào quì mọp trước áo quan. Chẳng hiểu động lực nào thúc đẩy, tôi xô đám người đang chặn lối, chạy theo. Cô ngước về Nghi đang cầm sợi dây gai buộc hai vạt sô rộng thõng, cô chỉ vào cái khay đựng các băng tang, mấp máy một lời xin. Nghi bặm môi, tay vung một đường cương quyết nhìn thẳng vào cô lắc đầu. Làm sao tôi quên được ánh mắt hai người ấy. (tr.35)
Cực điểm của cơn lốc xoáy giữa nỗi chết và tình yêu nằm ở chương Vức nắng, khi cô con nuôi của Hạc lao vào tình yêu xác thịt ngay sau cái chết của mẹ nuôi. Một phản ứng rất Tây Phương chăng, của một thiếu nữ lớn lên tại Pháp? Ở đây văn phong trộn lẫn hiện thực lạnh lùng và ảo giác tâm thần :
... người đàn bà đang đứng đầu giường nhìn tôi cướn người dưới hai cánh tay Danny vồng bắp thịt. Tôi ngoái cổ, người đàn bà không hề giật mình trong khi tôi rú lên mỗi lần thằng Danny dùng hết sức thúc tôi xuống đáy ngục. Người đàn bà gật gù theo mười tiếng kính coong giục giã cầu hồn rồi lại thẳng người lên. Chắc chắn bà ta đang lạnh lắm (...) Vậy mà Danny đang đổ mồ hôi hột, mấy giọt từ thái dương nhỏ xuống nóng hổi. Chúng rơi trúng miệng tôi, giữa hai môi, nồng, mặn, đắng, chát, hôi tới muốn nôn thốc. (tr. 200)
Một nửa cuốn truyện còn lại, xen kẽ với những chương trên, là lời kể của Miên, hay của người khác nói về Miên : Miên và gia đình, Miên và bè bạn, tại Việt nam và tại Pháp. Xin để dành bạn đọc khám phá, theo người điểm sách đó là những chương trải chuốt nhất, và dĩ nhiên, mô tả nhân vật và khung cảnh hoàn chỉnh nhất. Chỉ xin nói thêm về cái tựa Cá Voi Trầm Sát :
... Vào thôi Miên, kẻo lạnh. Sáng ra mình xuống xem dấu cá.
Miên thở ra thật nhẹ, giọng bay trong gió:
-Nước dâng lấp cả rồi, còn đâu nữa để xem. Cá có vào đây yêu đương cũng không dại dột yêu đến trầm sát như trăm năm xưa. Chúng đã trở về với biển. (tr.259)
Thì ra cá voi cũng có thể bị cuốn vào cơn lốc của tình yêu và nỗi chết.
CVTS là một áng văn chương cực buồn mà tuyệt đẹp về số phận người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Đọc CVTS người ta đôi khi tự hỏi : có phải phải văn chương là để chuyên chở nỗi đau về thân phận con người, hay chính thân phận con người là cái cớ để làm văn chương ? Chỉ biết, văn chương như thế có khả năng vừa khơi mở vừa xoa dịu nỗi đau thân phận.
*
Xin mời bạn thưởng thức một bài thơ xuôi. Đơn giản là trích đoạn trong chương cuối của « Cá Voi Trầm Sát », nhưng người viết bài này không tự ngăn nổi mình cắt dán và đảo lộn câu chữ chút ít, khiến cho đoạn văn ấy (tr. 269-270) trở thành một bài thơ độc lập mà vẫn giữ văn phong Mai Ninh...
Khi quay trở về căn nhà bờ biển nhìn lại không gian vừa đầy ắp vừa hoang trống, em không nghe ra gì ngoài tiếng gọi của sóng và tiếng kêu khàn kiệt của bầy cá xác thân cường vũ nhưng linh hồn mắc cạn. Những con cá voi lạc loài trầm mình trên bờ cát.
Em biết anh giờ đã thành cái bóng. Cái bóng không mang khuôn mặt anh nữa, em nhìn vào chẳng còn đau đớn. Không là cặp mắt em từng ngó sâu vào đó, không là đôi môi em chờ đợi một lời nói, không cả cuống cổ đầu ngực mà em loay hoay mở nút áo ra để chạm mũi vào tìm một mùi hương. Cả âm thanh cũng mất, chẳng còn giọng nói.
Tại sao ? khi em đã hoàn tất chuyến đi đơn độc ấy trở về, thoát khỏi dòng sông trắng ? Phải chăng từ đáy sâu của cô đơn và thất lạc trồi lên, em không còn là chính mình ngày trước ? Chiếc bóng đi theo thân thiết, không bội bạc, nó chân tình vì không còn là một con người, một ai.
Tình yêu giản dị là phiến đá trong suốt tinh anh nguyên tuyền, mình ngả cả xác cùng hồn lên đó một lần trong đời, một lần thôi, và chỉ có mình với đá. Tất cả có thể rực rỡ như một ánh dương, hay toả sáng hiu hắt tựa ngọn đèn dù chao đi trong ngọn gió chiều hôm nhưng mãi thủy chung rọi xuống thềm hiên, hay sức cuốn hút của khúc nhạc tuyệt vời một ngày mình đã may mắn nghe ra. Tất cả, để còn giữ nổi lòng tin vào những điều đẹp đẽ.
Thưa vâng ! có lẽ cảm tưởng bạn là đúng, thấy hình như thoáng một chút Tagore.
*
Trong CVTS Mai Ninh đã vẽ chân dung nhiều con người trên một nền không gian và thời gian khá dài rộng. Chọn lựa ấy đưa đến một vấn nạn, có lẽ là đặc trưng của thời chúng ta : làm sao viết ngắn, mà vẫn hoành tráng, trong cái buổi mà ít ai có thì giờ đọc trường thiên tiểu thuyết (Nguyễn Viện, với Rồng và Rắn, đã giải quyết vấn nạn này một cách hoàn toàn khác). Giải pháp viết của Mai Ninh là đặt trọng tâm vào việc mô tả nội tâm nhân vật. Nội tâm các nhân vật khác nhau trong cơn lốc xoáy của tình yêu và nỗi chết, với bối cảnh lịch sử như đã nói. Ngoài ra, rất tiết kiệm ngôn từ với những tình tiết khác, thông tin « khách quan » thì hoàn chỉnh, nhưng chỉ vừa hoàn chỉnh cho người đọc hiểu đầu đuôi câu truyện, không dư thừa, rải rác khắp nơi, và nhất là lại chìm trong mạch chính rất lôi cuốn. Chính vì thế mà « Cá Voi Trầm Sát » là một tiểu thuyết tương đối khó đọc : Văn phong các chương cố ý không thống nhất, vì mỗi chương là tiếng nói của một người. Cả cuốn truyện không triển khai một tư tưởng hay một « luận đề » gì rõ rệt, không có câu hỏi và giải đáp.
Xin được nhắc lại, CVTS là một tiểu thuyết viết như một tập hợp truyện ngắn. Đó là dấu ấn của tác giả, chẳng thể khác, nghịch lý như một sáng tạo văn chương. Truyện ngắn, vì mỗi chương có thể được thưởng thức riêng, vì văn chương tôi luyện từng câu, luôn luôn tạo ra một không khí rất đặc biệt. Vẫn như trong các truyện ngắn ta đã đọc, văn Mai Ninh được tôi luyện, khắc hoạ, kỹ như những nữ trang lộng lẫy, hay như những bức tranh thêu. Tiểu thuyết, vì cái không khí bàng bạc số mệnh nhỏ nhoi của con người đó là tương đối nhất quán, và vì câu chuyện xoay quanh những nhân vật chính luôn có mặt, người ta thấy được những chuyển biến của họ theo thời gian. Điều ấy nếu đọc CVTS như đọc một tập truyện ngắn thì không thấy.
Văn Mai Ninh buồn mà không đơn điệu, đôi khi căng thẳng dữ dội, và đôi khi bâng khuâng man mác. Nhưng ẩn ở đằng sau cái không khí buồn đó là một bố cục rất chặt chẽ ; xử lý thông tin về các liên hệ giữa các nhân vật, về không gian và thời gian, rất thuần lý, mặc dầu có vẻ tình cờ chấm phá. Những chi tiết tưởng như đẩy đưa mơ hồ của chương này lại soi sáng cho một chương khác. Sự sắp xếp đến tối giản đó đưa đến một nghịch lý nữa : văn Mai Ninh rất dễ đọc, vì đẹp lôi cuốn, nhưng thực ra khó đọc hết ý.
Chẳng hạn về mối tình của Miên và Băng, được báo một lần đầu như thế này thôi, giữa những tình tiết quan trọng hơn nhiều, của truyện ngắn ngày ngâu đổ :
... có đốc-tờ Băng vừa ra trường, con trai người chú của mẹ anh và ba Miên đấy thôi.
Tôi ngỡ ngàng:
- Chú Băng nào?
Anh bối rối, vội vàng cắt ngang:
- Ơ, họ xa, Miên không biết đâu. (tr. 39)
Đến cuối truyện người ta mới thấy tầm quan trọng của đoạn này trong truyện ngắn Cuộc trầm sát của loài cá voi. ...Miên yêu mà nào ngờ được Phil có tên Việt-Nam là Băng. Khi biết Phil là Băng, Miên đau ngất... (tr. 254)
Có lẽ CVTS cần người đọc chú tâm và có trí nhớ tốt, hoặc như người điểm sách này vốn rất kém trên cả hai mặt đó, sẵn sàng đọc lại cả truyện một lần nữa. Nói như kiểu thời thượng, CVTS là một tác phẩm « kén » độc giả. Nếu công việc của người điểm sách là giúp độc giả tiếp cận tác phẩm dễ dàng hơn, thì ở đây chỉ có thể nói : bạn hãy đọc CVTS từ từ thôi, cứ coi như là mỗi lần đọc một truyện ngắn cũng được ; và sau cùng tìm một ngày thoải mái đọc lại một lúc toàn bộ câu truyện.
CVTS, theo thiển nghĩ, là một tác phẩm có tầm vóc nhân bản sâu kín, lại hay một cách độc đáo. Cấu trúc của tổng thể và của mỗi chương đều tinh tế khổ luyện như một bản concerto để phô bày tối đa những biến tấu của các nhạc đề. Và như một bản concerto do một nghệ nhân xuất sắc trình diễn, những nhạc đề đó được lồng trong một văn phong thường nhẹ nhàng lãng đãng mà thật ra chau chuốt khó ngờ. Một tác phẩm như thế đáng được đọc một cách trân trọng.
Hàn Thuỷ
(Diễn Đàn, số 144 - 10.2004)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét