Trân trọng
BBT
* * *
*
Nước mắt lâm tặc
- Nếu hỏi cánh kiểm lâm Lâm Đồng rằng lâm tặc ở đâu ngang ngược, “gấu” nhất họ sẽ trả lời ngay là ở vùng Quảng Sơn_ Ninh Thuận, nghĩa là người ở dải đồng bằng nằm dưới đèo Krông K’Pa, xứ sở mà quay đủ 180o ta chẳng thể trông thấy rừng đâu cả. Cho đến một ngày tôi quyết định lọt vào trong những cái làng “ăn rừng” khét tiếng chuyên nghiệp suốt mấy chục năm qua này…
Sự xuất hiện của tôi trong tích tắc cả làng Triệu Phong đến Thạch Hà, Hạnh Trí_xã Quảng Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận_ đều hay tỏ. Có lẽ họ đã liên tục rỉ tai, và chạy đi báo cho nhau biết. Một không khí cảnh giác với người lạ, chừng thường trực suy nghĩ rằng ai cũng có thể là công an, kiểm lâm… ( trong lực lượng liên ngành chống vi phạm lâm luật của chính quyền huyện) giả dạng để …đoạt lấy gỗ, truy quét nghề “ăn gỗ rừng” phi pháp của họ.
PHÁ RỪNG “ CHUYÊN NGHIỆP”
Tuy thế, nhưng rảo qua các làng,
nhìn đâu cũng thấy gỗ, từ gỗ khúc đến gỗ xẻ;
chúng được bày lăn lóc, tứ tung trước, sau và hai
bên hông nhà mà không một chút mảy may sợ sệt; tất cả
công khai như thể đây là một thế giới riêng, bất trị,
mà luật pháp bảo vệ rừng mất tác dụng. Cảnh người
ta để gỗ nguyên trên những chiếc cộ bò_ loại xe sử
dụng bò để kéo_bày bán. Đó đây thêm những chiếc cộ
đầy ắp gỗ tươi rói vừa đưa từ rừng về cũng ngang
tàng chễm chệ trước các sân nhà. Trong khi đó, những
người khác đủng đỉnh chở gỗ trên những chiếc
cộ bò đi bán cho những xưởng cưa, hay đầu nậu gỗ
trong làng. Không phải tất tần tật người dân đều
“nhảy rừng”, nhưng hoạt động về gỗ lậu trở
thành thứ sinh hoạt thường nhật sôi động, phổ biến
nhất ở cái làng này. Họ rao giá gỗ tạp ngày
hôm nay là 1,2 –1,4 triệu đồng, gỗ căm-xe 4,5 triệu
đồng, dổi, bằng lăng, hay cẩm lai là cứ thêm 2-5
triệu đồng/ m3. Làm sao không ngạc nhiên khi một
vùng đất không có lấy một chỏm rừng, rừng lại ở
cách đến 32 km( nhưng thuộc… huyện Đơn Dương,
tỉnh…miền cao nguyên Lâm Đồng), phá rừng nổi tiếng,
“chuyên nghiệp” với nghề khai thác, cưa xẻ, bán buôn
gỗ lậu suốt hơn 20 năm nay mà chính quyền sở tại vẫn
cho phép hệ thống xưởng cưa, xưởng mộc, chế biến
gỗ... hình thành, trong khi điều đó ngay cả các tỉnh
trên Tây Nguyên_ nơi rừng vẫn còn_ cũng không dám. Rồi
cảnh nhỡn tiền khi đêm về, dễ thấy những tay
đầu nậu buôn bán gỗ thoả mái “rước” gỗ từ
những chiếc cộ bò ở các nẻo đường rừng đổ ra,
cảnh đưa gỗ vừa xẻ lên những chiếc xe khách, xe
tải để đánh đi Phan Rang, Nha Trang, và ngược vào Sài
Gòn… Hoá ra ở Lâm Đồng, lâu nay giới thầu cất nhà,
thợ mộc…kháo nhau “ nếu muốn mua gỗ thì về Ninh
Thuận!” là thế.
La cà quán xá ở Quảng Sơn người
dân mách với tôi rằng, muốn biết nguồn gỗ trong
làng có dồi dào hay không, cũng như dinh dưỡng trong bữa
ăn của người dân độ này có đang “khá” không, chỉ
cần nhìn vào sức mua hàng hoá ở cái chợ xã nằm
trước đường quốc lộ 27 là biết_ gỗ là một thứ
“hàn thử biểu” đời sống dân sinh vùng này. Và người
ta cũng mách rằng, cộ bò đi gỗ vào rừng ngày hôm sau
có đông hay không phản chiếu qua sự tấp nập của cái
chợ cỏ ngày nào cũng họp ( gần như duy nhất ở Nam
Trung Bộ) nằm không xa làng vào ngày hôm trước, với cỏ
do những nông dân nghèo từ các vùng khác cắt đem
về đây bán. Cỏ tươi ngon là một thứ “nhu yếu phẩm”
quan trọng cho việc đi ăn gỗ ở rừng, và thường chỉ
có bò đi rừng ( tức bò làm ra tiền nhanh) mới được
ăn cỏ mua, bồi dưỡng chu đáo.
Ba ngày “cày” tới cày lui vùng
Quảng Sơn đủ để tôi hiểu được “qui trình” tấn
công rừng cao nguyên ở đây như sau: người ta đánh cộ
bò băng qua những cánh đồng Ninh Sơn, nhắm thẳng lên
dãy núi rừng ở hướng Đông Nam từ mờ sáng hôm
trước, và đưa gỗ về vào đêm khuya, hoặc rạng
sáng của hai ngày sau đó. Những người đi gỗ quí ( như
cẩm lai, trắc, kiền kiền, căm xe…) thì phóng xe máy vào
rừng, rồi dấu xe kín, sau đó một tuần sau quay về làng
đánh cộ bò vào chở gỗ cưa hạ được. Trước đây
mạnh cá nhân nào nấy “ăn” rừng, nay người ta “liên
minh” lại, đi một lúc 15- 50 cộ bò, với lực lượng
30 – 100 người cùng 15 – 50 con bò vạm vỡ nặng cả
nửa tấn. Phương cách này giúp dễ dàng bày binh bố
trận theo hướng áp đảo, “ đủ sức” chống
chọi, đối phó với lực lượng bảo vệ rừng ( và lâm
luật) vốn lèo tèo và ngày càng quan liêu, nhát gan, sợ
chết, nếu lỡ giáp mặt nhau. _Ý chí quẫy đạp mưu sinh
của con người thật khủng khiếp! Những lâm tặc ngang
tàng, khinh đời nói toạc ra với tôi là trước đây họ
lầm lũi xẻ gỗ, chở gỗ…, còn nay mọi sự đều có
đội quân do thám “trận địa”( như không có kiểm
lâm, công an, quân đội…) trước, rồi mới rời rừng.
Chưa hết, dân đi “ăn gỗ” đều sắm điện thoại
di động, để hễ thấy dấu hiệu bất ổn là tìm đồi
núi cao nhảy lên ( chỗ có sóng) để loan báo cho nhau dấu
gỗ, tẩu tán bò, trốn người… Cứ thế, suốt hơn hai
mươi năm chăm chỉa vào vùng rừng chuyển tiếp giữa cao
nguyên với miền duyên hải thuộc huyện Đơn Dương, tỉnh
Lâm Đồng khiến muốn gỗ to ngày càng phải đi xa hơn,
rừng mỏng ra, teo lại, nên họ phải mò lên đến tận
lâm phận cheo leo ở Ka Đơn, Pró, dãy núi 1600 ( có lẽ
đỉnh núi này có độ cao 1.600 m so với mặt biển). Họ
nói, dù rừng đã lùi xa dần, nhưng giờ hễ xuất cộ bò
khỏi làng là bằng mọi giá phải có gỗ mang về. Kẻ
chuyên đi săn gỗ quí thì cứ 1-2 tuần kiếm được 4-7
triệu đồng, còn ai nhỏ gan, chỉ đủ lực để ăn
non thì cứ hai ngày một cộ gỗ trên xe đánh về cũng
kiếm được triệu bạc…
...Khi lâm tặc... bị bắt. Ảnh Nguyễn Hàng Tình |
“ CHẤP NHẬN”… PHẠM
PHÁP
Trước hiên của một ngôi nhà
cuối làng Triệu Phong, xã Quảng Sơn, chị Hồng ngồi
thẩn thờ nhìn vào dãy núi xa tít hướng lên Lâm Đồng.
Tôi hỏi căn nguyên của cái nhìn nặng trĩu ấy, chị
bảo: “ không biết ảnh ( người chồng_PV) có thoát
được “kiểm lâm” không !”. Chị rằng, cứ mỗi lần
chồng đánh bò ra đi, là dằng dặc thời gian chị ở
nhà… hồi hộp, lo sợ. Chị lo cái cây từ trên cao
ngã đổ đè chồng, lo bò bị tóm( mỗi con bò dùng để
kéo ở đây trị giá trên 10 triệu đồng), lo chồng bị
bắt, lo chiếc cộ sì lốp giữa rừng, lo qua núi qua
đồi xe chở gỗ sa ổ voi lật nhào… Ngay cái con đường
tiến thẳng vào rừng chạy ngang nhà, chị có lạ gì cảnh
người ta khiêng người chết do gỗ ngã đè trên rừng
về… Chị rằng, mấy người đàn ông “gắn bó” với
rừng ở cái làng này mà không sức mẻ, què quặt ít
nhiều trên thân thể. Không có sức khoẻ thì đừng mơ
“ăn” được gỗ rừng, cho dù phạm pháp, nên hầu hết
dân nhảy rừng đều là người ở cái tuổi hừng
hực nhất của đời người, từ 17 -40. Bà Tư Lê, 60
tuổi, ở làng kế cận, làng Thạch Hà, bảo có mỗi
đứa con trai bửu bối nhưng cũng đành để nó đi rừng
ăn gỗ, chỉ vì “ không thì gia đình lấy gì sống!”.
“ Đất đai ở đây chỉ toàn cát, lại phơi dưới nắng
như trút lửa quanh năm như thế (Ninh Thuận là
vùng đất khô hạn gay gắt nhất nước, thì Ninh Sơn khô
cháy nhất Ninh Thuận), lại không có thuỷ lợi…, hỏi
làm sao có thể bám nông nghiệp mà sống!”. Tôi nhớ
lại hai ngày qua, mình đã qua lại những cánh đồng bao
la nhưng “trắng” công trình thuỷ lợi ấy. Sự khắc
nghiệt không chỉ hiện hiện ở ngoài đồng, ngay tại
nơi họ cất nhà, tất cả chỉ là cát, từ đường làng
đến ngõ xóm, sân nhà; thứ gì nhìn cũng thấy gầy gò,
tiều tuỵ, và nếu có thứ cây xanh gì đó ôm lấy những
căn nhà ba gian hai chái cổ điển nhỏ bé, hay nhà xây cấp
bốn mới cất thì đấy là cây me chua, và… xương rồng.
Bà Lê bày tỏ là gia đình cũng có một ít đất canh tác
có thể trồng cây mì, cây mía, nhưng nắng cháy nuốt
tiêu liên tục mấy mùa nên đành bỏ hoang luôn cho
đỡ … lỗ vốn. Một số người làng chỉ ra rằng nếu
nóc nhà nào đó ở đây có cuộc sống thoả mái hơn một
chút, thì đó là gia đình có người ở nước ngoài, hoặc
có con gái đi lấy Việt kiều, Việt cớm. Một dạo vì
khổ dắt dây, gái nào lớn lên cũng ngóng Việt kiều
về rước_ tóm cho được anh Việt kiều. Gái đẹp thì
có cơ hội, gái xấu thì đọng lại. Gái có chí học
hành thì… tìm cách thoát khác, ở các Thành phố lớn
trong Nam... Bà Lê không oán trách tiền nhân, vì phận
lương dân, từ Quảng Trị họ di cư hàng loạt vào từ
năm 1972 – 1973 để tránh đạn pháo quá khốc liệt ở
cái mùa hè đỏ lửa của chiến chinh trên đất nước
đau thương, chọn cái chốn đất đai bạc màu, thừa nắng
thiếu nước, sự sống khốc liệt… này. Biết xứ này
khắc nghiệt cũng chỉ an ủi nhau mà ở, thì
cũng tìm cách mà tồn tại, chứ sao giờ. Khổ cực cũng
quen, mà khắc nghiệt rồi cũng quen thôi. Rằng, trong
hành trình di dân suốt dọc dài lịch sử, đâu phải
người dân Việt nào cũng chọn được những vùng
đất tốt tươi. Mà ai cũng ở vùng đất trù phú, thì ai
sống sinh trên những dải đất cằn khô, bất lợi, khốn
khổ, dù về mặt lý thuyết thì tất đất nào của tổ
quốc cũng thiêng liêng.
***
Hàng ngày, nhìn thấy chiếc cộ
bò chở đầy gỗ lặn lội suốt đêm từ rừng về
vừa tấp vào sân những căn nhà mọc trên cát. Có hôm,
tôi đánh bạo xông vào ngay những căn nhà ấy để
“đối thoại” trực diện. Thế là bắt đầu với một
lâm tặc trẻ tuổi: … anh có biết phá rừng
là phạm pháp không ?. Lâm tặc tên Tịnh, vốn là bộ đội
xuất ngũ, có một vợ hai con này hỏi ngược lại
tôi: “ … Nếu vợ con anh cần ăn, rẫy đồng không tạo
ra được cây trái, của cải để bán kiếm tiền, anh
phải làm gì để duy trì sự sống cho họ, nếu anh ở
đây!?”. Anh rằng, “đụng” tới rừng là đang huỷ
hoại sinh thái, là phạm pháp, lại chẳng thể thấy hạnh
phúc bao giờ ở nghề “ăn cắp”, luôn phải chui
nhủi, bị rượt đuổi này, nhưng anh không có sự lựa
chọn khác.
Anh Tịnh thú nhận là từ gạo
đổ nồi, mắm muối, sữa cho con vừa chào đời, tiền
cho đứa lớn hơn đi học mẫu giáo, đến cái quần
lót cho vợ cũng đều do …rừng Lâm Đồng ban cho. “
Ngay cả khối tiền nợ ngân hàng cho căn nhà cấp bốn
mới cất, con bò kéo vừa mua để đi cày cũng... nhắm
vào rừng kia để tìm cơ hội trả”. Anh bày tỏ là
anh rất “sợ” lực lượng bảo vệ lâm luật,
họ tịch thu miếng ăn(gỗ) anh nhiều lần, nhưng anh không
hề căm hờn bao giờ. “ Họ cứ làm nghĩa vụ
của họ, là tìm bắt chúng tôi, còn chúng tôi vẫn phải
tìm cách để sống, kiếm cái bỏ bụng….! Nếu tôi là
họ tôi vẫn quyết liệt đi bắt bọn phá rừng!”. Tôi
hỏi, vậy anh sẽ phá rừng đến bao giờ thì dừng lại?
“Tôi cũng chẳng biết nữa !”, anh tỉnh rụi. Tới
đây, tôi chợt nhớ lại lời của một ông kiểm lâm
trên Lâm Đồng nói về khoảnh khắc rung động trước
tình đồng loại, khi những con người tả tơi đó _ dân
kiếm sống bằng nghề rừng ai mà chả tả
tơi_quì lạy dưới chân, hạ mình tuôn trào nước
mắt giữa rừng để xin lại con bị. Tất nhiên con
bò là tài sản lớn nhất của cư dân ở đây. Mỗi khi
bị bắt, lâm tặc ngửa mặt kêu trời, và bảo kiểm lâm
gỗ các ông cứ thu, nhưng cho lại con bò. Mất con bò là
mất cái cần câu cuối cung. Chặt hết những cần câu
này là … xóa sạch lâm tặc miền Quảng Sơn. “ Có
người nào giàu có mà bán sức, lặn lội rừng sâu để
tìm kiếm, cưa đẽo từng khúc gỗ lẻ đâu !”,
người kiểm lâm ấy khẳng định. Tiếp xúc với nhiều
lâm tặc khác nữa, đều những lý lẽ tương tự.
Tịnh nói với tôi, sự khốn nạn là những người “ ăn
của rừng rưng rưng nước mắt” như anh lại phải
mang ơn những tay đầu nậu gỗ, vì chúng “ giúp” tiêu
thụ gỗ bất cứ giờ khắc nào. Sự “mang ơn” đầu
nậu gỗ, các xưởng cưa ngay trong cái vùng đất
không có một mảnh rừng ấy, rộng rãi mức lâm tặc có
thể ứng tiền trước đi rừng, về có gỗ trả sau. Trò
mèo nắm đàng cán của dân lái buôn muôn đời đã chỉ
ra thực chất của quan hệ ân – nghĩa đó luôn bất cân
xứng, với phần lợi nghiên về kẻ có tiền chứ
không phải kẻ bán sức, hay nói khác thực chất là làm
giàu cho chúng. Lân la tìm hiểu thì đúng là chả có kẻ
đầu nậu gỗ nào ở vùng này nghèo cả. Những cái nhà
lầu to nhất, con cái có cơ hội học hành xa nhất, sắm
được vật dụng xa hoa nhất… đều là dân buôn gỗ…
Gỗ cưa hạ được từ lên núi Lâm Đồng về để rước nhà ở đồng bằng. Ảnh Nguyễn Hàng Tình |
TIẾNG VỌNG TỚI…
Nhưng ít năm sau, lâm tặc Quảng
Sơn vừa nuôi bò, và vừa sắm xe máy Tàu để ... chở gỗ
lậu. Tùy theo lâm phận mà dùng phương tiện gì “tác
chiến”, đối phó được với các cơ quan chức trách.
Sự đối phó lẫn nhau cứ đong đưa mãi. Chả đâu
như vùng Quảng Sơn này, từng có lần lâm tặc đã tàn
phá rừng lại hung hãn, lại hùn nhau ra tay chống người
thi hành công vụ quyết liệt. Hai bên “đánh” nhau
như chiến trận. Người trong Cơ quan chức trách bắn đạn
thật, trúng. Lâm tặc ấy chết. Thế là cả làng khiên
xác anh ta đi lại trên đường, lên trụ sở Chính quyền,
không chịu chôn… Mười năm qua lại vùng này, tôi chụp
không biết bao nhiêu là ảnh người dân ở đây chở gỗ
qua lại trụ sở UBND huyện, xã. Ảnh chụp ban đêm nhiều,
mà ban ngày cũng không thiếu. Sự cùng quẫn của con người
là nỗi khổ của chính họ, và đè luôn lên Chính quyền,
những người phục vụ, cai trị, hoặc dẫn dắt họ.
***
Sẽ có tội với mai sau nếu như
thấy người ta tàn phá rừng mà không lên tiếng phản
đối. Nhưng cũng sẽ có tội với đồng loại phải lâm
cảnh hành nghề phá rừng nếu không biết được vì sao
họ phải sa lầy vào con đường đó, buộc phải đánh
cược, bán lẻ sinh mạng từng ngày cho rừng sâu núi
thẳm, đối mặt với luật pháp, tù tội. Những cuộc
rượt đuổi, truy quét, bắt bớ những đồng loại mà ta
gọi là “ lâm tặc” sẽ chỉ là nỗ lực đối phó ở
“ phần ngọn”, trong khi cái gốc để giữ rừng
lại nằm ở điều kiện sinh sống, là khát khao làm ăn
tử tế của bất cứ người dân quê nào. Sức lực
có thể đổ xối xả trên rừng như thế, làm sao họ
không thể làm cho cây lá xanh tươi, trái hạt phun trào
trên đồng rẫy chứ. Lang thang trên những đồng rẫy khô
cháy không khốc bên ngoài các làng thôn ở Quảng Sơn tôi
nhận ra rằng, hình như thứ giải thoát đầu
tiên cảnh “ăn rừng” ngập ngụi, dai dẳng ở đây chỉ
có thể là Nước, nguồn nước cho cây trồng, căn cơ hơn
là về một nền nông nghiệp biết biệt đãi cho những
vùng nông thôn kém may mắn. Cả xứ này khát nước, cái
khát và sự chờ đợi đã tính bằng từng thập
niên trôi đi, bằng thế hệ đời người.
Có một buổi chiều, tạt vào
trụ sở chính quyền huyện Ninh Sơn mà trà dư tửu
hậu về những công dân “chuyên” vi phạm pháp luật
kia của họ. Những tưởng họ sẽ phủ nhận “nghề lâm
tặc” của “thần dân”, nhưng không, vị Phó Chủ
tịch UBND huyện có vẻ khá chân thật với dân
trần tình: “ …
Hàng ngày nhìn thấy cảnh bà
con chở gỗ lậu từ rừng về đi lại công
khai trên quốc lộ 27 mà xót cho rừng. Vì rừng Lâm Đồng
chính là đầu nguồn của tỉnh Ninh Thuận, đầu nguồn
của sông Dinh, của cánh đồng Phan Rang… Đôi lúc chúng
tôi xấu hổ và bức xúc trước trách nhiệm của
chính quyền trong công tác ngăn chặn phá rừng...”. Đã
không che dấu sự thật, Bà Phó Chủ tịch Dương Thị
Dung còn vạch rõ thêm: “ Có khi cây thấy gỗ mới
chỉ như bắp vế, nghĩa là cây non, cũng bị cưa hạ. Gỗ
rừng già ngày càng hiếm. Xót!”. Theo bà Dung, Chính
quyền huyện cũng nhiều lần tổ chức truy quét,
đánh dẹp nhiều lắm. Nhưng sau mỗi đợt lắng xuống
thì làn sóng tràn vào rừng mới lại âm ỉ, dâng trào. .
Đói thì đầu gối phải bò. Bà thẳng thắn: “ Thú
thực chúng tôi không dám khẳng định được có thể
chặn đứng được nạn săn gỗ, thâm nhập rừng
phi pháp nói trên ngay một sớm một chiều. Nếu tôi
nói chặn đứng được, tức là hô khẩu hiệu, nói dối
và duy ý chí, không dám đối mặt trước thực trạng đầy
thách thức trước đời sống dân sinh. Nếu nói chặn
đứng được, sao bao năm hiện trạng ấy vẫn còn !?”.
Như chờ sự thấu hiểu của một
kẻ cầm bút đang ngồi đối diện, bà từ từ trần
tình: “ Ở địa phương cho đến bây giờ vẫn
không có hoạt động công nghiệp, cũng chẳng có
những nghề thủ công truyền thống nào đáng kể, ngoại
trừ sản xuất nông nghiệp với cây con giá trị
thấp, mà hệ thống thuỷ lợi còn quá bé nhỏ, khô
hạn trong năm bao giờ cũng cứ khốc liệt kéo dài.”.
Thực thi pháp luật là bổn phận của bộ máy Chính quyền
bà, và là lý do của cái ghế bà đang ngồi. Đọc được
suy nghĩ tôi, bà tiếp: “Nhưng nói gì thì nói, chính
quyền vẫn cố mà ngăn chặn phá rừng…. Phải tăng
cường truy quét nạn khai thác, buôn bán gỗ hơn nữa.
Cho dù “thương dân” nhưng vẫn không thể chấp
nhận để họ kiếm sống bằng cách phạm pháp…”. Bà
lặp đi lặp lại rằng Chính quyền huyện Ninh Sơn đang
cố tìm cách để nông dân Quảng Sơn gắn bó với
nông nghiệp, thôi nghĩ đến…rừng. Chúng tôi sẽ phát
triển thủy lợi, tha thiết kêu gọi Trung ương đầu tư
để có nước … cho đồng ruộng ngoài kia”. Đất xấu
thế, nắng nóng thế, thì nước cũng chỉ khắc phục
được một phần của việc canh nông.
Nhìn hết tài nguyên đất đai,
thiên thời -địa lợi-nhân hòa ở đây, người bình
thường cũng thấy mọi thứ đều ngược lại, nên
biết được ngay là chính quyền và thần dân của họ sẽ
còn ở thế rượt đuổi nhau mãi_ Lâu đấy !”. Cứ như
Chúa đã chọn dân Quảng Trị lưu cư này để rèn ý chí
làm người, và trước hết để… hành. Bởi, kỹ cương
pháp luật phải giữ, nhưng quyền tồn sinh của con
người khi có mặt trên mặt đất l bất biến.
***
Khi rời khỏi những cái làng “ăn
rừng” xứ Quảng Sơn, tôi ngoái nhìn lại, vẫn thấy
đấy những chiếc cộ bò lầm lũi tiến về dãy núi mờ
xa trên cao nguyên típ tắp, với những ánh mắt người
thèm thuồng gỗ lậu như sự lựa chọn cuối cùng, chan
hồ trong sự dửng dưng với cánh đồng quê họ đang lướt
qua.
Nguyễn Hàng Tình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét