Chuyên mục "CLB văn nghệ" lần này giới thiệu đến các bạn một khuôn mặt đặc sắc của làng văn học VN.
"Vâng, đối với mình, Đỗ Phước Tiến là nhà văn đặc sắc. Lần đầu tiên đọc Đỗ Phước Tiến trên Talawas, mình thực sự choáng váng. Giọng văn mê hoặc, hình ảnh kỳ bí, ngôn từ diễm tuyệt là những điều mình bàng hoàng cảm nhận được trong thế giới riêng biệt của Đỗ Phước Tiến.
Hôm nay, mình giới thiệu truyện ngắn của nhà văn họ Đỗ trên trang blog này để chia sẻ với các bạn, tiếc là không liên lạc được với tác giả để xin phép. Như những nhà văn khác ở VN, những người không đứng vào hàng ngũ những kẻ theo đóm ăn tàn, Đỗ Phước Tiến rất nghèo lại mang bạo bệnh. Mình mong các bạn làm quen với anh ấy - qua những áng văn tuyệt tác - nếu có dịp các bạn nhớ mua vài quyển truyện Đỗ Phước Tiến để tặng lại bạn bè và người thân. Tặng cho nhau cái vốn quý giá của cuộc sống mà có những con người đã viết bằng hơi thở và nỗi gian truân của chính số phận mình."
VT
VT
http://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-011/dao-ngu-cu
Đảo của dân ngụ cư
Đỗ Phước Tiến
Sau một thời gian dài lang thang khắp
miền duyên hải, cái đầu nhọn của tôi dài
thượt ra, sạm đi, héo như một trái đậu bắp thô. Cùng một gã Triều Châu
mắt lác,
tôi săn lùng những cái đồng hồ cổ lỗ sĩ, treo tường, để bàn - gọng kính
cũ - vỏ
đài bán dẫn, bình xăng máy đuôi tôm, bảng đèn hiệu của xác trực thăng.
Tóm lại,
tôi kiếm sống bằng cách tìm mua những phế phẩm đã thổ tả đến lục phủ
ngũ tạng. Những chiếc móc sắt kềnh càng
trong kho trạm khai thác nông sản chẳng hạn, dây xích lòng thòng có thể
gông
trọn một cái máy cày. Doanh nghiệp giang hồ gần năm
năm không lúc nào trôi chảy, một phần cũng tại cái xứ sở nhiệt đới đỏng
đảnh
này, hết mưa rồi nắng. Khi đã mòn nhẵn tất cả các túi, chúng tôi mới
sáng mắt trước một trục trặc khó mà bù đắp nổi: cả hai đứa đều chậm
chạp và
kiết xác. Rồi vận hội nữa, nếu ai đó tin rằng đi buôn lạc xoong
cũng cần có vận hội.
Rồi có một ngày xuân rất
xanh, hai đứa tôi chia tay nhau giữa cơn cùng quẫn. Tôi đi lên phía
Bắc, cố bứt thật xa những cánh đồng nước mặn với
hoàng hôn tím ngắt trong giấc mơ tha hương. Gã Triều
Châu trở lại miền cực Nam,
lo phần hậu sự. Kế hoạch của chúng tôi mở đầu như vậy.
Nhà chệt
Liếm rất dễ tìm bởi cổng gỗ sơn đỏ chói, hàng rào cây mắm có dây nhãn
lồng và
những chùm trái gáo tròn trĩnh cuốn quanh. Lúc tôi đến, quán ăn đã cũ
kỹ lắm
rồi, tường vôi có mái lợp ngói âm dương đã hở móng. Khu nhà phía sau
như cái
bẫy chuột, gác gỗ xấu xí, ống thông khói như cái bàn chải răng dựng
đứng, toàn
bộ cấu trúc u ám, mờ nhạt và rối rắm. Thị xã lúc nào cũng mù
mịt bụi. Trên những con phố chật chội, những quần thể kiến thiết đơn
điệu như vậy còn rất nhiều, âm thầm bạc thếch dưới nắng xuân.
Theo kế
hoạch, tôi sẽ ở phụ việc cho chệt Liếm khoảng hai năm, vừa đủ để tỉnh
hồn. Trong thời gian này tôi phải làm đủ thứ:
tập nếm rượu, cuốn chả hấp lạp xưởng, ướp kim tiền kê
và muối những quả trứng bắc thảo. Có thời cơ sẽ nghiền ngẫm món xào
chua thập
cẩm hay lẩu cá chẽm. Sành sỏi được món hầm nhừ sa tế
thì coi như bá chủ căn bếp. Xin nhớ cho: căn bếp của một thương nhân
gốc Hạ
Môn. Nó là lối thoát mà tôi với gã Triều Châu đã thoả thuận.
Tôi là đứa
tồi tàn, đúng vậy. Mấy
mùa qua, tôi đã vận động nhiều hơn một con bò và dư sức hiểu rằng cần
phải vận
động nhiều hơn nữa nếu không muốn bẹp dí như một con gián trong khi
chen lấn với cuộc đời. Tôi cũng có quyền được ăn no ngủ yên như người
khác và hơn nữa, tôi chẳng thích
sống một mình tí nào.
Ngoài gia
đình chệt Liếm, trong quán còn có một người khách gia thanh lịch khắc
khổ, một
người Ấn lai Việt đứng bếp và một người Khmer xuất phát từ miền châu
thổ sông
Hậu. Tất cả đều lầm
lì, rình rập lẫn nhau và bao giờ cũng chu tất phần
việc của mình.
Tôi rất thích ông Khmer, một
người trầm mặc và hào hiệp, to xám như con chuột đồng. Tương
ứng về mặt nhân chủng cũng như hoàn cảnh kinh tế, tôi nghĩ vậy, người
ta dễ
dàng bộc lộ nghĩa cử đồng thời nhanh chóng chấp nhận nhau. Tình bằng
hữu
chúng tôi bắt đầu bằng cái bật lửa có nắp mở kêu tanh tách của tôi, di
vật cuối
cùng của một thời lang thang. Ông Miên
rất vừa lòng mặc dù bọc cao su đựng thuốc gò của ông xếp cạnh cái bật
lửa trông
thật chướng mắt. Trong khi tôi chui vào một hốc tối,
lặng lẽ ngốn những miếng sườn còn lại từ ngày hôm qua thì ông Miên,
khăn rằn
quấn quanh bụng, điềm nhiên quấn thuốc cạnh tấm thép chắn lò. Ông phục
vụ chệt Liếm đã lâu, lâu lắm rồi, có lẽ còn trước khi cái
sinh mạng hèn mọn của tôi xuất hiện dưới gầm trời này. Cứ quan sát cách
mổ bụng theo kiểu người Bình Xuyên của ông thì biết:
từ dưới lên, hơi chếch qua trái một chút. Người Khmer nói chung
không hay thay đổi chỗ ở cũng như phương thức kiếm sống, như cây cỏ của
xứ sở
nhiệt đới vậy, chúng sẽ tàn lụi rất nhanh nếu bị tách khỏi môi trường
sinh
trưởng tự nhiên.
Nhiệm vụ
của ông Miên nặng nhọc ghê gớm. Một tuần ngoài những phần việc cố định,
ông còn
phải hạ dê, có thể là bốn nếu quán hoạt động hiệu quả. Những con dê mới
đến còn rất tơ, được vỗ béo kỹ càng, lông óng mướt
như vừa mới chui ra từ những nụ so đũa cuối đông. Chúng được phục đến
say khướt bằng một thứ rượu mía nồng nặc, bị đuổi chạy khắp thị xã với
cái lon
rỗng cột sau đuôi cho đến mệt lử. Những con dê bạc hạnh đó chết rất
nhanh trước
mũi dao thiện nghệ của ông Miên, mình mẩy đẫm mồ hôi và đáy mắt mở to
còn tràn
ứ khoái cảm.
Quán mở
của suốt ngày nhưng chỉ khởi sắc thật muộn màng khi chiều xuống, lúc
những cơn
lốc bụi đã dịu đi.
Người
khách gia cột ngang bụng một tấm vải hoa sặc sỡ. Ông phun nước lên sân
gạch, xếp thêm bàn ghế với phong thái đạo mạo cố hữu. Người
Ấn nặng nề xoay trở quanh những tấm thớt, tráng cái chảo hai quai trên
bếp với
động tác hờ hững, khinh bỉ. Ông Miên muối những tảng
thịt dê còn bốc khói và tôi đánh vật với cái máy xay cứ long lên sòng
sọc.
Khi đèn măng sông được thắp lên, chệt Liếm đã ngấm say men
thù tạc. Ông cười hào sảng giữa đám thực khách, quan sát từng món thức
ăn dồn dập mang ra với cặp mắt cân nhắc tỉnh táo, ly rượu sô-đa lấm tấm
hơi
nước trong tay. Chệt Liếm cũng có phần việc riêng và ông
không cho phép bất cứ ai trong chúng tôi làm thay. Treo
những cái đèn lồng bằng vải lên cổng gỗ chẳng hạn, rót rượu cho thần
tài, thanh
toán tiền với khách, đó là công việc của ông.
Hoàn tất
phần việc của mình sớm nhất là ông Ấn. Trong khi chúng tôi cọ rửa thì
ông ẩn
vào một góc riêng, lầm rầm những bài kinh dài lê thê trước đĩa đèn dầu.
Cái xác phàm chảy xệ của ông rũ xuống trong lúc trò chuyện cùng đấng
tiên tri.
Đắp xong
một chục lò mạt cưa, tôi tìm cách chui lên gác với chị Chu. Ở trên đó,
tôi có thể
nghỉ ngơi giây lát với tâm trạng yên ổn như đang ở nhà mình. (Dĩ nhiên
là nếu tôi có nhà). Ở trên đó, chị Chu ngồi một mình ngày này qua ngày
khác với những con gà
nhựa gáy được khi lên dây cót. Chệt Liếm cấm tất cả mọi người
lên gác, trừ xiếm Hoa. Tôi ra vào bằng mái thông gió
và bồn chồn căng thẳng mỗi khi ở gần chị Chu.
Tôi biết chẳng phải một mình tôi đến với chị. Có một
buổi sáng, chệt Liếm từ trên gác leo xuống, ông đi
thẳng một mạch ra sàn nước. Ở đó ông người Khmer
đang
rửa những cái bình đất đựng rượu huyết dê.
Chệt
Liếm đến gần, mắt dán chặt vào gáy ông Miên. Hai người
đàn ông đứng nhìn nhau rất lâu trên sàn nước. Chệt Liếm rút trong túi
ra
một cái bật lửa có nắp mở kêu tanh tách, ngắm nghía nó một lát rồi đặt
trên nắp
lu nước, sát người ông Miên. Rồi ông
lẳng lặng bỏ đi.
Chị Chu kể với tôi rằng chị
đã ngồi trong “cái hộp gỗ” của chị từ lâu lắm rồi, từ khi biết ngồi và
chị còn
phải ngồi cho tới bao giờ căn gác tan đi, tan vào thinh không theo khói
mạt cưa
hằng ngày dưới quán xông lên. Tôi không tin. Tôi ăn những mẩu bánh
nướng chị để dành từ bữa ăn trưa để chị
yên lòng rằng tôi là một đứa con nít, chẳng làm hại được ai. Tôi
nắn bóp những bắp thịt đã mỏi nhừ của chị vì ngồi lâu, nghe chị kể lại
những
đêm rằm vàng ngập ánh trăng, chị ngồi chờ đám mây vẩy cá phiêu bồng qua
hiên
gác. Chị bắt tôi đếm nhịp theo tiếng thời gian
lốc cốc trên những mái ngói âm dương, len lỏi qua những hẻm phố tối tăm
lồi
lõm. Cái thế giới bạo động liên tục phía dưới, và chệt Liếm
nữa, hoàn toàn không dính dáng gì đến chị. Một tay
và một chân chị chỉ còn da với xương do chứng liệt cơ bẩm sinh.
Chệt Liếm
đối xử với chúng tôi rất tốt và chưa bao giờ tôi nghi ngờ lòng nhân hậu
của ông
chủ. Tôi cũng rất cảm
thông với tinh thần bền bỉ, ý chí phục hưng nòi giống của người Hạ Môn,
và của người
Trung Hoa nói chung. Chệt Liếm chỉ
có một mình chị Chu và chắc chắn là ông rất
khổ tâm vì điều đó. Ly rượu sô-đa sủi tăm chẳng xoa dịu nổi sự bất hạnh
cay đắng của ông đâu, nó chỉ như lượng thuốc an thần
có tác dụng giới hạn. Và chệt Liếm xứng đáng là một người đàn ông Trung
Hoa,
ông thầm lặng chịu đựng nỗi ô nhục do chị Chu
gây ra với một nghị lực phi thường. Ông điều khiển cơ đồ của mình chính
xác đến
từng cái nút chai, những miếng sườn tôi ăn trộm chỉ là
những sơ sẩy hiếm hoi. Ông khen ngợi không tiếc lời những bó rau cần
vàng úa
hay giỏ nấm mèo nhăn nhúm thảm hại chỉ vì chủ của chúng đã mang đến cho
ông từ
những thôn ấp khô cằn xa xôi. Ông có đầy đủ phẩm chất của một
thương nhân bậc trung và chỉ có vậy thôi. Ông không
biết chọn, bằng mưu lược của mình, một điểm tựa có sức đàn hồi để vọt
đi xa
hơn. Tôi đang bổ sung thiếu sót của ông đây: chị Chu
là một trong những mục tiêu của kế hoạch giữa tôi và gã Triều Châu.
Tôi dành
ngày càng nhiều thời gian cho chị Chu và tâm
lực nữa. Những lúc chị
tuyệt vọng, tôi lại phải trổ tài hùng biện xó chợ của mình ra. Tôi rất
ghét nước mắt, nước mắt và sự im lặng u uẩn. Những giọt
nước mắt của chị lăn suốt đêm chưa tới cằm. Nó khiến tôi chạnh nghĩ đến
cái thân phận khốn nạn của mình.
Tôi ôm chị vào lòng và bắt chước gã Triều Châu, tôi giảng giải cho chị
hiểu
rằng mây vẩy cá chỉ là một đám hơi nước, lẩn thẩn và ngu
ngốc. Chúng hèn nữa, đúng, rất hèn. Chúng có tồn tại
hay không phải nhờ thần gió quyết định thay. Thời gian tha hồ
rỉa rói tấm thân mỏng manh bạc nhược của chúng. Mà thời gian là gì,
tiếng lốc cốc là do chiếc trống dây tự va đập vào nó,
mà người nhuộm đồ rong thì chắc gì đã sống tốt hơn tôi với chị. Thời
gian là sự vận động sinh học hết sức nhảm nhí của cảm giác, nó
không có yếu tố định mức, nó bấp bênh lắm. Tóm lại chị hay tôi hay bất
cứ một người nào khác trên đời này, như những cái máy cày lê lết qua
cánh đồng
thời gian, còn khát vọng chính là chiếc móc sắt han rỉ
cùm chúng mình ở lại trên cõi nhân gian. Ngồi một chỗ như chị hay suốt
đời di
động như tôi thì có khác gì nhau. Sự thăng hoa của nội tại mới thực sự
là bước
đi của con người trong cuộc đời.
Tấn tuồng
của tôi với chị Chu kéo dài hơn nửa năm. Tôi không thể tiếp tục
vì không còn đủ sức. Trong lúc soạn thảo kế hoạch với
gã Triều Châu, tôi đã không đánh giá đúng tầm mức của tình huống này.
Trong lúc ôm ấp thân thể trần trụi của chị, tự đáy lòng tôi đã
thành khẩn tin rằng mình đang làm một điều thiện, rất chân thiện. Giống
như những thứ thổ tả tôi vẫn săn lùng ngày trước, dù đã tồi
tàn, chúng vẫn có giá trị vật chất đôi khi vượt ra ngoài những ước lệ
của quy
chế trao đổi. Chị Chu cũng vậy, lúc vùi đầu vào bộ ngực mềm ấm đó, tôi
bàng hoàng nhận ra rằng, vang sâu trong cái sinh vật dị dạng đang rệu
rã kia là
những cơn bùng nổ liên tục của khát vọng làm người, của những đam mê
hết sức
chân thành, trong trắng và sôi động. Linh hồn mỗi người, nếu quả có nó
thật ra
không ăn nhập gì với cái xác phạm mà nó ẩn náu cả. Từ
đó suy ra một hệ luận: tự do tâm linh cũng là một nhu cầu đồi truỵ bởi
thói tắc
trách vô liêm sỉ của nó. Tôi cố lèo lái cuộc ái ân cho
mềm mại hơn so với trí tưởng tượng thô tục của mình. Tôi luôn bị ám ảnh
bởi nỗi
hờn ghen rất trẻ con rằng trên cái giường của chị Chu,
trước tôi đã có những trận luyến ái bão táp kinh hồn. Còn tôi chỉ là
một thứ
hình nộm để lấp đầy những khoảng trống giữa hai cơn bão. Với những cơ
bắp rắn
chắc và lì lợm, ông Miên dồn ép quần quật chị Chu bằng những động tác
quyết
liệt và chi li, giống như đang đối xử với những con dê tử tội vậy. Biết
làm sao được khi đó cũng là một dạng phân tâm bệnh lý?
Trong tay tôi, chị Chu
cũng ngất đi rất nhanh, mình đẫm mồ hôi và lớp lông tơ trên ngực chị đỏ
rực
khoái cảm.
Dù rất yêu
chị Chu và dù luôn luôn tâm niệm với mưu đồ
dựng nghiệp của mình, tôi vẫn rất khổ nhọc khi phải kéo dài lối sống bệ
rạc của
mình trong nhà chệt Liếm. “Cái hộp gỗ” lưu cữu mùi củ cải muối của chị
Chu
theo tôi cả trong giấc ngủ. Nhiều
lúc bắt chước chệt Liếm, tôi cố đánh những dự cảm đen tối đeo đẳng
trong đầu
bằng những ly rượu. Nhưng ly rượu cay xé lưỡi dĩ nhiên cũng là thứ ăn
trộm. Nhưng tôi đã nói rồi, rượu chỉ là thứ thuốc an thần vô hiệu đối
với cơn khắc khoải kinh niên của con
người. Mặc cảm về sự hèn mọn của mình là động lực thúc đẩy con người
vượt lên
trên nhưng đồng thời cũng chính vì nó mà người ta tự vùi dập cuộc đời
mình.
Điều đó đúng hay sai cần phải thử nghiệm, còn dự cảm thì ngược lại, dự
cảm tự
nó tìm đến.
Rồi một ngày, một ngày mà
xuân cũng rất xanh, tôi từ bến đò trở về, ì ạch kéo theo
một xe đầy mạt cưa. Cơn lốc tháng ba lồng lộn qua những hẻm phố, nhét
đầy miệng
tôi những hạt cát vừa khô vừa mặn. Cổng gỗ trước của quán mở
toang, sân gạch vắng ngắt. Dưới hiên, ông già người Ấn
ngồi thẫn thờ ngắm những con ruồi đang phơi nắng, đĩa đèn đặt bên cạnh.
Phía sau, lơ lửng trên cái bẫy chuột, có tiếng đàn bà khóc rấm rứt.
Tôi đi vào, ê ẩm choáng váng vì những dự cảm chẳng lành, vì
mệt và vì nắng. Nhà sau cũng vắng vẻ. Tiếng khóc nỉ non trên gác. Lạy
trời, lẽ
nào những dự cảm đen tối của tôi đã thành sự thật? Tôi
không tin. Nhưng rõ ràng đêm qua tôi đã nhìn thấy cuộc đụng độ giữa
chệt
Liếm với ông Miên ngay dưới chân thang gác. Chệt Liếm là một
người đàn ông phi thường, tôi biết chắc như vậy. Thấy
bóng người nhốn nháo trên đó, tôi phóng lên. Ở bậc
thang cuối cùng, tôi sựng lại.
Trên cái
giường mà tôi và chị Chu vẫn lén lút với nhau
hằng đêm, giờ cũng có hai người. Chỗ của tôi (hay chỗ của ông Miên cũng
vậy)
được thay thế bằng xiếm Hoa. Chị Chu nằm ngửa, cằm trễ
xuống, mắt trợn trừng trông thật kinh khủng. Xiếm Hoa cong người như
một
con tép sắt, nức nở trên người chị. Trên cái bàn thấp kê sát đầu
giường, bữa ăn đang dở dang, chén cơm rơi tung tóe trên sàn gác, một
chiếc đũa gãy cắm trên chiếu. Tiếng khóc không thoát ra từ đôi vai run
rẩy của xiếm
Hoa mà dội từ trên mái ngói đầy bồ hóng xuống.
Người
khách gia đứng trước mái thông gió, cần cổ duỗi ra chống đỡ cái đầu đạo
mạo
đang gục xuống vì xúc cảm. Ông Miên tựa vào tường cạnh cái bàn thấp,
gương
mặt lầm lì của ông phồng lên, đỏ lưỡng. Chệt Liếm ngồi cứng đơ trong
cái
ghế duy nhất có trên gác, mặt nhợt nhạt, những con gà nhựa lăn
lóc dưới chân ông. Không có khói mạt cưa, nhưng căn gác như sắp tan ra
vì những
ánh mắt thù địch, vì hơi thở căm giận ngấm ngầm của những người đàn
ông, dồn
dập và sôi sục. Dồn dập và sôi sục, tôi mơ hồ thấy ông Miên nâng tô
canh trong
mâm cơm lên, múc ít nước canh đổ vào lòng bàn tay, chà
xát rồi ngửi. Điệu bộ của ông lúc đó rất giống dáng dấp băn khoăn của
con chuột
đồng trước miếng mồi đã bị đánh bả. Ông đăm đăm nhìn ra hiên
gác, nơi những thanh gỗ mỏng lắp chéo nhau tạo nên một góc trang trí mờ
tối.
Có lẽ đó là nơi hò hẹn của chị Chu
mỗi đêm với đám mây vẩy cá hoang tưởng. Rất lâu, tôi cảm nhận sự vận
động
chậm rãi ấy bởi hàng trăm tiếng lốc cốc đều đặn xuyên qua đầu mình, tôi
thấy
ông Miên bưng tô canh đến gần cái ghế duy nhất trên gác. Rất
bình tĩnh, ông chụp cái tô lên đầu chệt Liếm, nhẹ nhàng và từ tốn. Lá
cải trôi từ trán chệt Liếm xuống chân mày xuống gò má, xuống cằm
rồi rơi rất nhanh xuống đùi. Chệt Liếm vẫn ngồi cứng đơ, hai tay bóp
chặt thành ghế. Sắc vàng đùng đục
của nước canh loang loang chầm chậm trên mặt ông. Phủi tay với vẻ hả
hê, ông Miên chuệnh choạng đi xuống gác. Rồi ông đi mãi không bao giờ
trở lại nữa.
Tôi ngồi
bệt xuống sàn gác. Tiếng trống dây của người nhuộm đồ rong bây giờ ầm
ầm như tiếng
trống trận trong đầu tôi. Thời gian ơi thời gian.
Thời gian tắc nghẹn, nhẹ tênh. Chị
Chu ơi, bây giờ chị đã nghe thấy tiếng thời gian gõ nhịp trong bước đi
đầu tiên
của chị chưa? Tôi đã nghe rồi đây, ảo thức của tôi
đang vỡ vụn tan tành.
Vài ngày sau đám tang chị Chu, ông người Ấn ra đi. Ngày xuân ấy
chưa kịp tàn, những con ruồi trơ tráo sau khi tắm nắng thoả thuê đã
nhảy vào
đĩa đèn của ông, vùng vẫy rồi chết luôn trong đó. Ông người Ấn rũ người
đi khi chứng kiến đức tin tận tụy của mình bị đấng
tiên tri phỉ báng. Ông bỏ đi không nói với ai một lời, chẳng
buồn thanh toán số dầu lâu nay chệt Liếm vẫn cung cấp cho ông. Tôi còn
nán lại quán chệt Liếm một thời gian nữa. Chẳng còn mưu đồ gì, căn bếp
không còn kích thích nỗi tham vọng
chiếm cứ của tôi nữa. Tôi yêu chị Chu
nên khó mà rời xa những âm hưởng lay lắt kỷ niệm cứ gào thét vào mỗi
đêm rằm trên
căn gác gỗ. Ông khách gia rồi cũng đi, chệt Liếm không giữ
được ông. Liên minh của ông đã tan rã.
Cuối cùng,
người ta tống cổ tôi ra khỏi cánh cổng gỗ sơn đỏ cùng với những mẩu
xương dê. Nằm bên vệ đường như một con chó ghẻ, tôi
nghiền ngẫm đủ điều. Tôi không tiếc những tháng năm đã mất
trong cái bẫy chuột. Tôi biết mình không bao giờ có
thể san sẻ được với họ, những người tồn tại phía sau hàng rào dây nhãn
lồng đó,
cuộc sống lâu bền được.
Tôi nghĩ
đến gã Triều Châu. Thật ra, cứ sống như gã mà hay. Với cặp
mắt lác, gã có thể cùng lúc nhìn thấy hai phía cuộc đời. Bởi vì cuộc
đời bao giờ cũng đúng y như mắt mỗi người đã nhìn thấy.
Gã là người Trung Hoa cho nên gã phải hiểu người Trung Hoa
hơn tôi. Gã biết chệt Liếm nên thay vì dấn thân vào,
gã đẩy tôi phiêu lưu trong cái bẫy chuột của ông. Cứ để gã ôm ấp căn
quán
tương lai với mớ bàn ghế hỗn độn trong giấc mơ êm ấm, tôi đã chọn cho
mình một
con đường khác. Đừng trách tôi phụ bạc, cuộc chia tay
ngày ấy chắc gì ai đã may mắn hơn ai. Suy cho cùng hạng cùng đinh như
hai đứa
tôi chỉ là cái phần chìm trong nồi canh do chính chúng tôi nặn ra để
loè bịp
cơn đói.
Tôi còn
nghĩ đến chị Chu nhiều lần nữa. Tôi sẽ còn ân
hận rất lâu vì những miếng sườn thiu, vì cái bật lửa có nắp mở kêu tanh
tách và
vì những thớ thịt xung đột triền miên trên người chị Chu.
Sẽ không bao giờ, suốt cuộc đời mình, không bao giờ tôi còn
có được hạnh phúc nữa, không bao giờ.
tháng 2. 1992
Đỗ Phước Tiến
(Văn học và Dư luận 1992)
Đỗ Phước Tiến,
năm 1975, là một cậu học sinh tiểu học khoảng 10 tuổi, con
út một đại tá quân đội Sài Gòn. Cha đi học tập, Tiến học chưa xong
trung học
thì phải lao vào đời với tất cả những gian truân và
hẩm hiu mà ta có thể mường tượng phần nào. Làm thợ cơ khí ở Đà Nẵng
(nơi anh ra
đời và lớn lên), sáng tác truyện ngắn đầu tiên, gửi đăng tạp chí Đất
Quảng. Rồi
suốt bốn năm, trôi dạt vào đồng bằng sông Cửu Long, làm đủ thứ nghề:
chở lúa mướn,
bán lạc xoong, kéo xe
... Năm
ngoái, cha anh ra khỏi trại cải tạo, anh trở về Đà Nẵng sống với cha.
Từ
sáng sớm đến khuya, dọn ăn tại một quán nhỏ và đi giao
nước đá. Tiếp tục viết văn (Đỗ Phước Tiến vừa hoàn thành bản
thảo một tập truyện ngắn, trong đó có truyện đăng số này), và quyết chí
học cho
xong trung học để đi xa hơn nữa.
Cùng với
những thông tin này, chúng tôi được biết gần đây mỗi chiều anh lên cơn
sốt, có
thể bị nám phổi. Tất
nhiên, Diễn Đàn sẵn sàng chuyển mọi sự giúp đỡ của
bạn đọc về cho nhà
văn trẻ này.
Về tài
năng và tiềm năng của Đỗ Phước Tiến, bạn đọc có thể đoán định trực tiếp
qua
Đảo của dân
ngụ cư.
Một trong những độc giả đầu tiên của truyện này, Dương Thu Hương,
thì cho rằng: “
Văn phong bình dị mà mặn
mòi. Một không khí huyền ảo đan
xen rất tự nhiên với hiện thực
phàm trần (...). Sức hấp dẫn đầu tiên (của truyện này) là
có nội
dung truyền đạt, các nguồn sinh lực hay suy tư mà
người viết muốn chuyển
tải cho người đọc”.
*
Lưu ý của BBT: Những cụm từ nổi màu xanh bên dưới chứa link liên kết. Bạn nhấp chuột (bên trái) vào cụm từ đấy để chuyển đến trang thông tin.
*
Lưu ý của BBT: Những cụm từ nổi màu xanh bên dưới chứa link liên kết. Bạn nhấp chuột (bên trái) vào cụm từ đấy để chuyển đến trang thông tin.
2 nhận xét:
you're in reality a just right webmaster. The web
site loading pacxe is incredible. It sort of feels that you are
doing any distinctive trick. Also, The contents are masterpiece.
you have performed a magnificent process iin this subject!
Also visit my page :: dò xổ số TạI xo so minh ngoc
I don't even know how I ended up here, but I thought this post was
good. I do not know whho you are but certainly you are going
to a famous blogger if you aren't already ;) Cheers!
Allso visit my web-site ... www.thanhsoft.net
Đăng nhận xét